**
Cọc bê tông cốt thép DƯL - Tư vấn Kết cấu, BTCT, thi công xây dựng
Cọc bê tông cốt thép DƯL
Gởi các bác!
Tôi rất muốn tìm hiểu về cọc BTCT DƯL và đặc biệt là cách tạo mối nối, nhưng tìm không thấy tài liệu. Bác nào co chỉ giúp tôi với!
Thanks!
Có 40 câu trả lời!!
|
|
|
|
Cọc BTULT có mặt bích ở 2 đầu dùng để neo thép DUL, trước hết tựa mặt bích này vào khuôn đổ bê tông, sau đó căng thép DUL lên mặt bích, đổ bê tông, ly tâm, sấy hơi nước, tháo khuôn, lúc này bê tông cọc đỡ mặt bích. Mặt bích sẽ được hàn bằng mối hàn như cọc bình thường tại công trình. Không dùng mối nối bulông (trừ cột điện 20m = 12m+8m). Không thấy có cách nào hay hơn và kinh tế hơn cả.
|
thatgia |
|
|
He..he..he...Tui đã thi công cọc dự ứng lực rồi, không co nối bằng bolt đâu, chỉ dùng mối hàn hai mặt bích lại với nhau thội dùng đường hàn liên tuc.
|
casinomkw |
|
|
Xin các bạn cho hỏi, loại cọc này chịu được đất cứng hay không? Hay nó chỉ tiện để đóng vào đất bùn (như ở Ðồng bằng các sông Cưủ-long, Hồng-Hà)?
Cái lỗ rỗng chính giữa đủ to cho cáp cốt thép DUL hay mục đích làm rỗng để tăng độ cứng của cọc?
Chiều sâu lớn nhất có thể đạt được là bao nhiêu, và đường kính tương ứng?
|
Freddievaw |
|
|
Đến Chú Thu:
Theo cháu được biết và nghe người ta nói cọc BT ULT chỉ vượt chội hơn cọc BTCT thường ở khả năng chịu kéo. Mà cọc dễ phát sinh ứng suất kéo khi được đóng từ vùng đất tốt sang đất sét dẻo mềm, hay bùn. Với điều kiện đất cứng, cháu cũng không biết là anh nào tốt hơn anh nào? Nhưng thêm một ưu điểm nữa là cọc này dài hơn cọc BT thông thường, mối nối ít hơn và chất lượng cũng tốt hơn. Ngoài ra giá thành có lẽ cũng là nhân tố quyết định đối với việc có lựa chọn loại cọc này hay không. Còn về lỗ rỗng trong cọc là để tiết kiệm bê tông và cũng phù hợp với công nghệ bê tông ly tâm để tạo mác bê tông cao. Theo cháu, người ta không luồn cáp ULT vào khoảng trống này. Cháu được biết cọc BT DUL có đường kính phổ thông từ 350-600mm. Chiều sâu có thể đạt tới 60m, ví dụ như ở Thượng Hải (TQ), một khách sạn cỡ 30 tầng, đóng cọc hình như là D=450mm, mác bê tông từ 400-600kg/cm2, chiều sau cọc 60m từ 03 đoạn 20m. Điều băn khoăn là cọc này dài quá, khó vận chuyển và cẩu lắp. Một vài Cty ở VN quảng cáo có làm cọc dài tới 16m.
Cuối cùng, cháu chưa từng có 1 tí kinh nghiệm thực tiễn nào về loại cọc này, cả Thiết kế cũng như thi công. Mong các bạn có kinh nghiệm thực tiễn cùng trao đổi thêm.
|
arthomeviet |
|
|
|
Em Tran Duc Cuong,
Cám ơn những lời giải thích của em.
Ðó cũng là giải pháp tốt cho đất ở Việt-nam, những vùng đồng bằng tạo nên bởi phù sa các sông, lớp bùn dày 60m là thường, và đôi khi lên đến hàng trăm mét. (theo Bùi-hưũ-Lân, GS CDCC Phú-Thọ)
Ở Âu-châu, đất tốt hơn, và chỉ cần đào chừng 20-30m là đụng đá cuội, cho nên họ hay dùng cọc khoan nhồi (cho những đường kính nhỏ 500-600mm) và dùng cọc khoan cho những đường kính to hơn, đến 2.000mm.
Chiêu dài 20m cũng có thể gây khó khăn khi di chuyển, làm 16m là phải rôi, phải chịu như vậy cho đến khi hệ thống giao thông được hoàn thiện hơn.
Kinh-nghiệm về chuyên chở đà, cừ chiều dài trên 20m :
=========================================
Ta chỉ có thể chở bằng đường thuỷ mà thôi, tìm hay thuê một tàu đủ lơn để mà chở nó . Từ bến tàu phải có xa lộ chịu tải trọng ít ra là (32 tân, để có thể chở tới công trường. Khi chở về công trường thường là về đêm để tránh bớt giao thông, và phải nghiên cứu đường đi trước cho từng chuyến đi (có thể chạy ngược chiều giao thông ? phải leo lên các bồn cỏ ...)
Các cột đèn với các dây điện văng ngang đường cũng là một trở ngại cho nên phải có một người cầm sào cao để đỡ các dây ấy lên trong khi xe chạy qua .
Vì thế cho nên ta cần thiết kế những xa lộ và những tuyến chính sao cho không có dây điện văng trên không . Hiện nay có những kỹ thuật dùng để đem cáp trên không xuống ngầm dưới đất bằng cách dùng máy gọi là Fusée (như tênlửa vậy) : ta đào hai hố hai bên lề đường, xong dùng một đầu hình trụ (như đầu đạn lửa), và dùng máy nén ép qua bên kia đường như thi công nén cọc ngang . Xong cho ống plastique luồng qua, và cho cáp luồng vào trong ống.
|
ngoctrinh |
|
|
Cọc bê tông DUL tui có biết sơ sơ. Nói chung nó cũng chẳng có gì đặc biệt cả, dạng cọc tròn PC spun pile (ít khi dùng chữ centrifugal) thường có ở Nhật hoặc Hàn, châu Âu không phổ biến, châu Âu có dùng cọc hình vuông, tam giác DUL.
Ở nước ta hiện nay một số nhà máy (Phan Vũ, BT620, BCC, PhúMỹ) có thể chế tạo cả hai loại cọc này và đang thương mại hóa cả hai loại nhưng chủ yếu vẫn là cọc loại tròn.
+ Ưu điểm về mặt giá thành so với cọc RC không lớn lắm, vì bê tông đắt hơn (mác cao), cốt thép PC bar (có cường độ fy = 14000 - 16000 kg/cm2) phải nhập từ Indo, Thailand, Malay hoac Han, Nhat, giá đắt hơn gấp đôi và lại phải mua dự trữ vì không chủ động thời gian.
+ Ưu điểm vượt trội của nó là tiến độ. Nếu đúc cọc thường hay cọc vuông UDL thì không áp dụng được kỹ thuật accelerated curing (dưỡng hộ nhanh). Hấp hơi nước chừng 2-3 tiếng là nó đã cứng đanh (đạt mác) lên rồi vì thế có thể chở ngay ra công trường ngay ngày hôm sau.
+ Có hai dạng cọc PS spun pile đó là PC và PHC, cọc PC bao gồm công đoạn dưỡng hộ hơi nước ở áp suất thường (với t=70-80oC), còn bê tông thì dùng phụ gia loại thông dụng (ở VN là Sikament R4, Sikament FF khi cần), xi măng PC40 (ATSM C150 type I) mác xi măng chỉ 400 kg/cm2) nhưng nhờ ly tâm lèn chặt mà sau khi dưỡng hộ nhiệt có thể đạt 700kg/cm2 một cách dễ dàng. Nhưng để cải tiến hơn nữa người ta dùng cọc PHC hoàn toàn giống cọc PC chỉ riêng công đoạn dưỡng hộ nhiệt thì người ta dùng dưỡng hộ nhiệt+áp bằng cách cho vào autoclave để được luôn một mẻ cọc lớn chỉ trong một tiếng đồng hồ, cho lên xe ra công trường luôn. Nhưng cách này tốn chi phí đầu tư cho autoclave quá, Việtnam không chơi được (đội giá thành), mà ta chỉ sử dụng phụ gia gốc silicafume để kích nhanh quá trình gia tăng cường độ sớm khi dưỡng hộ nhiệt ở áp suất bình thường (sử dụng luôn hệ thống thiết bị sản xuất cọc PC như cũ), nhưng để bỏ tiền ra mua phụ gia mà chủ đầu tư không yêu cầu tiến độ cấp bách (như kiểu tây) thì chẳng bỏ bèn gì vì lại làm tăng giá thành nên chỉ có cọc PC là đang thông dụng mà thôi.
Nhờ kỹ thuật quay lytâm (spinning) mà lớp bê tông dàn thành vỏ hai bên vừa đủ cứng (chiều dày thành vỏ trung bình là 50-70cm tuỳ đường kính cọc. Điều này giúp tiết kiệm vật liệu (vật chuyển, đóng cọc nhẹ nhàng hơn).
Cốt thép được tạo ***g rồi đặt vào khuôn, sau khi quay ly tâm xong thì nó nằm ở giữa thành bê tông và tham gia chịu lực (kéo chặt bê tông lại). Quan trọng của việc làm ***g thép là phải cắt thép cho thật đều, sai số 1mm/15mm, sau đó hai đầu sợi thép thép được ép chặt kết hợp với việc cho dòng điện cường độ cao (điệp áp thấp) đi qua để tạo nên một cái nút như củ tỏi ở mỗi đầu (gọi là công đoạn heading - chồn đầu).
Một cọc thường có từ 8-16 cây thép (tuỳ thiết kế), tiến hành cho thép chủ và thép đai qua máy tạo ***g (caging) để tạo ***g thép. Đem ***g đặt vào khuôn, dùng mặt bích (cũng là miếng nối đầu cọc sau này) để làm chỗ khóa thanh thép rồi dùng kích thủy lực kéo căng thanh thép, neo khóa mặt bích vào khuôn (đòi hỏi khuôn phải đủ khả năng chịu lực căng của các thanh thép (70-120tấn).
Sau khi bê tông đạt cường độ (ngay sau khi ra khỏi bể dưỡng hộ) thì tiến hành xả khuôn, tức là để cho lực căng rút của thanh thép vốn tác dụng vào khuôn chuyển vào cho bê tông (stress inducement). Sau quá trình này thì cọc hoàn toàn có thể chở ngay ra công trường.
Khả năng chịu nén của cọc: lớn hơn cọc bê tông thường một ít, lý do là mác bê tông cao hơn cọc thường nhiều, nên cho dù bị trừ mất đi một lượng ứng suất nén trước do thanh thép gây ra nó vẫn còn lớn. Nhưng quan trọng là khả năng chịu uốn (*****ing moment) rất cao, điều này là quan trọng hơn đối với cọc nếu ta muốn có cọc dài để có thể giảm mối nối, muốn có cọc nhẹ để dễ thi công.
Sở trường của cọc này là đóng ở những vùng đấy yếu, cần cọc dài, nhưng khi đóng trên đất cát khả năng chịu lực vẫn hơn cọc thường, nhưng nó không phát huy được ưu điểm của nó so với cọc thường nên ít dùng (không kinh tế).
Cọc thường có chiều dài 12m, ít khi dài 15m chủ yếu do điều kiện chuyên chở và thi công đóng cọc chứ hoàn toàn không phải do kỹ thuật sản xuất. Đường kính thường là 500-600-900mm.
Khả năng chịu lực của cọc này thì cũng như cọc RC thông thường, chủ yếu bị khống chế bởi điều kiện đất nền, không vượt ngưỡng sức bền do vật liệu.
Chiều dài 1 đoạn cọc D300-400 khoảng 8-10m, cọc D500-600 khoảng 12-15m, có thể chế tạo cọc D900-D1200 dùng đóng cho công trình biển. Khi nối hai đoạn cọc với nhau dùng mối hàn để hàn hai mặt bích cọc với nhau. Tổng chiều dài cọc thường khoảng 45-60m, cái này do điều kiện địa chất quyết định.
Hiện nay Việt nam chưa ban hành tiêu chuẩn về loại cọc PC nên các nhà sản xuất phải tự tìm kiếm công trình chủ yếu do nước ngoài thiết kế. Và cũng vì không có tiêu chuẩn nên kỹ sư thiết kế của ta cũng ngại đưa nó vào công trình; Âu cũng là một vấn đề nan giải cho loại cọc này đi vào nghành xây dựng. Và không chỉ công nghệ cọc dự ứng lực mà nhiều công nghệ khác cũng sẽ phải hứng chịu cách ban hành tiêu chuẩn theo kiểu Việt nam của ta thôi.
Ngoài ra (miền Nam) trụ điện ly tâm cũng đã được chuyển sang chế tạo bằng phương pháp này, không còn dùng PC như trước nữa.
|
hyutars |
|
|
Bạn XUANTHUY,
Cám ơn bạn đã có viết thêm chi tiết. Tôi thấy bạn dùng chữ phụ gia silicatefume là không sai rồi, bên Âu-châu dùng cái này, tiếng Pháp là "fumée de silice" để chế tạo bê-tông cường độ cao.
Ở Việt-nam có những công nghệ như vậy thật là quý.
Chỉ cần hệ thống giao thông chịu được tải trọng cao, mở thêm vài nhà máy tiền chế dầm, cột DUL thì nước ta có thể xây dựng nhanh chóng nhà cửa, cao ốc, cầu...
|
puma12 43 |
|
|
Ở TP HCM hiện nay ngoài cọc tròn li tâm ƯST còn có cọc vuông rỗng ƯST. Cọc tròn li tâm chiều dài thông thường là 15 - 16m. Đường kính thường sử dụng là 400 - 600, nhưng sử dụng nhiều nhất là D500 thường sử dụng cho các nhà từ 10-16 tầng. Đất sử dụng loại cọc này đa phần là đất yếu. Chiều sâu cọc thường từ 30-60m.
Hiện nay có một vài đơn vị sản xuất cọc vuông rỗng ƯST có giá thành khoảng 70% cọc đặc. nhưng chỉ mới sản xuất các cọc có tiết diện nhỏ từ 300 trở xuống, rất kinh tế đối với các công trình từ 6 tầng trở xuống.
|
Freddievaw |
|
|
Bác Thụ ơi, một người ở tuổi như bác mà vẫn tham gia diễn đàn này với tụi nhỏ thì hay cho tụi cháu quá, và càng nói lên sự "có mặt" của diễn đàn này thật là hữu ích. Và sau đâu cháu cũng xin nói thêm một số điều về xây dựng ở VN nhưng không phải là "kỹ thuật" đâu nhé.
+ Về phụ gia ở VN chủ yếu vẫn là Sika, không phải vì sika tốt hơn MBT đâu mà vì các tên nó dễ kêu đối với dân ta nhất là công nhân và các nhà thầu nhỏ - một số lớn kỹ sư không có chuyên môn về VLXD (KS Kết cấu vv..) cũng gọi phụ gia là Sika tuốt (cũng như dân ta gọi xe gắn máy là Hông-dza (honda) vậy). Bác thấy có hay không, vậy mà cái anh xi măng Holcim lại đi làm các chiến dịch đổi tên rất tốn kém để cho được cái tên cho nó globalization. Trước đó khi và VN (1994) họ liên doanh với Tổng Công ty Xi Măng Việt Nam (Ở VN xi măng vẫn là độc quyền, giá xi măng đắt gấp 2,5 lần so với Thái Land) họ chọn cái tên rất hay là Xi măng Sao Mai (Morning Star), kết quả là một phần thị phần bán lẻ của họ bị mất về tay người khác đấy. Tuy nhiên xét toàn cục thì họ chọn như vậy cũng có cái lý riêng của họ.
Ngày ngay VN có vài ba nhãn hiệu xi măng "lạ" của một số doanh nghiệp nghành xây dựng nhưng đầu tư sản xuất xi măng; mua clinker của tháiland (chủ yếu là của siemcement) về nghiền để bán, cạnh tranh với các "anh lớn" cũng được đấy, chủ yếu nhờ vào quan hệ và gặp lúc thị trường xây dựng cầu hơi nhiều hơn cung một tí. Nhưng mà doanh nghiệp xây dựng (cũng như các doanh nghiệp nội địa nghành khác) có một kiểu "văn minh" kinh doanh là nợ lẫn nhau, giam vốn của nhau chừng nào có thể được dù có thể hợp đồng ký là "thanh toán trong vòng 1 tháng sau khi nghiệm thu), cái văn hóa này làm trì trệ sản xuất quá lắm, nhưng mà mãn tính mất rồi, không rạch ròi như cộng đồng các công ty nước ngoài tại Việt nam.
Sika vào Việt Nam 1993, trước MBT, thị phần của họ hiện nay lớn hơn MBT, trong nước có một vài loại phụ gia nhưng chỉ sống trong từng dự án có quan hệ, không đủ tiềm lực để phát triển.
Phụ gia "cái thứ nước cống" ấy mà bán với giá cắt cổ quá. Hồi xưa, nhà máy bê tông của chúng cháu tự mua hóa chất nguyên gốc từ nước ngoài về tự pha trộn được phụ gia tương đương các loại của sika (sikament R4, NN), rẻ nhưng chỉ dùng cho trạm bê tông của tôi để tạo một lợi thế cạnh tranh nho nhỏ thôi so với các nhà máy bê tông khác. Thử các chỉ tiêu không khác sika, thậm chí ở một công trình nhà máy nhiệt điện lớn đã vượt qua cuộc so kè với sika, nhưng các chắn tôi trộn thủ công thì sản xuất lớn là chưa thích hợp.
Nói chung bê tông là hỗn hợp của đá và cát, các hạt xi măng chỉ để gắn kết và định vị đá và cát mà thôi, phụ gia là giảm trơn ma sát giúp các hạt càng khít thì mác càng cao (nếu cho nước để giảm ma sát thì sẽ bị giảm mác), silicafume vì là "fume" nên rất mịn và tác dụng lèn chặt càng lớn, mác sẽ càng cao.
+ Về bê tông ứng lực trước, ở VN đã có hãng của Pháp liên doanh với Vinaconex lập một nhà máy ở phía bắc sản xuất các cấu kiện dầm nhỏ, sàn lắp ghép nhưng do các hạn chế cố hữu của bê tông lắp ghép mà sản xuất của nhà máy không phát triển được.
Riêng về các loại cọc (BTCT hoặc BTDUL) đúc tại công xưởng thì có thuận lợi hơn cột dàm sàn nhưng cũng không phải là giải pháp mà các nhà thầu chọn cho móng cọc hay toà nhà của họ tại công trường.
- Về mặt giá thành chế tạo thì sự nhỉnh hơn của BTDUL so với cọc BTCT không đáng kể về mặt tiết kiệm thép nhưng khấu hao cho máy móc thì tăng lên do đó hiệu quả mang lại chẳng là bao.
- Ngoài ra, những kỹ sư thiết kế thường không đưa cọc BTDUL vào công trình của tôi ở giai đoạn thiết kế nên người thi công không thể thay đổi hay đề xuất sử dụng loại cọc khác được, (hehe.. chỉ cần điều chỉnh chiều dài từng đoạn cọc mà vẫn giữ nguyên tổng chiều dài cọc mà cũng đã nhiêu khê lắm rồi huống hồ đòi đổi cả thiết kế cọc cơ à..)
- Một vấn đề lớn nữa mà cháu thấy bác có nói là hạ tầng giao thông, đúng thật, nó không thể đáp ứng được để vận tải hàng nặng như BTCT đi trên đường và vì thế chi phí mãi lộ (tiền đưa cho cảnh sát giao thông để họ lơ đi cho tôi đi qua) là rất cao. Nhà thầu xây dựng thích chọn giải pháp tự đúc lấy cọc BTCT thường tại công trường hơn.
- Thuế VAT cho cọc sản xuất tại nhà máy cũng là 10% trong khi đáng lẽ chỉ là 5% thì mới so sánh được với các nhà máy sản xuất sản phẩm khác, điều này không khuyến khích nghành xây dựng "công nghiệp hóa" sản xuất.
Một vấn đề khác đặc biệt cần lưu ý ở BTDUL so với BTCT là "tính không dẻo" làm cho quá trình thiết kế của nó phải tính đến sự đột ngột mất lực ứng suất dẫn đến việc phải chêm thêm thép dự phòng, làm tăng chi phí sản xuất.
Sự quá giòn là rất nguy hiểm, ví dụ một cột điện thường nếu lỡ may bị xe cộ tông vào thì chỉ bị cong oằn, bể bê tông nhưng cốt thép vẫn chịu lực nhờ thế mà dây điện không đổ xuống tại chỗ, nhưng nếu là cột BTDUL thì cây cột như bị một nhát dao cắt ngang, cả phần trên của cột đổ sụp xuống ngay tại chỗ và hậu quả của dòng điện 220V thì khỏi phải nói rồi. Một sàn bằng BTCT thường sẽ bị võng từ từ rồi mới sụp đổ trong khi điều tương tự không xảy ra với sàn BTDUL. Nên tính toán hệ số an toàn cho kết cấu BTDUL phải thỏa mãn các điều kiện này.
Mấy lời cùng bác và các anh em,
Chúc mọi người vui vẻ
|
test1212 |
|
|
Bác Xuan Thuy nói hay quá.Tham gia diễn đàn này thật bổ ích.Mong các bác post bài nhiều hơn.
|
delta deus |
|
|
Bác Xuân Thủy viết hay quá, tôi học hỏi được rất nhiều !
|
plantandzombi |
|
|
Em mới đi hỏi bên BT620 Châu thới về giá thì cọc dự ứng lực (BT mác 400) lại rẻ hơn cả cọc thường cùng loại (BT Mác 300).Như vậy tôi nên dùng loại cọc nào đây các bác? Ưu và nhược điểm của 2 loại cọc này?
|
Philipboxy |
|
|
Theo lý thuyết thì nói chung BTDUL ưu điểm hơn BTCT vì khả năng chống nứt của BTDUL cao hơn BTCT. BTCT bị nứt gây ăn mòn cốt thép dẫn đến phá hoại...
Nếu giá thành như nhau, công nghệ đóng cọc như nhau tôi ủng hộ dùng cọc BTDUL.
Theo tôi biết ở Mỹ người ta dùng cọc BTDUL cho công trình cầu rất nhiều. có rất nhiều loại cọc BTDUL đã được định hình hóa.
|
thanhtruc |
|
|
Ngày nay, trong thời buổi giá thép phôi tăng, và chắc chắc ngày càng tăng, do các nước có nguồn mỏ sắt siết chặt sản xuất, tăng thuế xuất khẩu (cụ thể là nước Nga Xô Viết, đất nước giàu tài nguyên dầu mỏ, khí đốt, nhôm, và sắt; chỉ mới 10 năm từ chỗ nợ nước ngoài mấy trăm tỷ nay đã có dự trữ ngân sách 130 tỷ USD), vì thế thì xu hướng cọc BTCT, dùng nhiều thép nguyên liệu, sẽ ngày càng đắt hơn cọc BTCT dự ứng lực.
Cụ thể giá bán cọc vuông BTDUL rẻ hơn cọc BTCT cùng loại là điều dễ hiểu, vì chi phí khấu hao cho hệ thống kéo căng của cọc thường không lớn, chỉ bao gồm một hệ thống kích thủy lực đặc chủng (có cần piston dài) là được, hệ thống bệ neo thì cố định xuống nền.
Khi chế tạo, người ta neo 4 thanh thép dự ứng lực vào một đầu, còn đầu kia dùng kích kéo căng, chiều dài từ điểm neo đến điểm kéo có thể tối 120m, trên đoạn đó người ta ốp ván khuôn rồi đổ từng khúc cọc 12m (khi sản xuất cấu kiện dầm dự ứng lực loại nhỏ cũng làm tương tự). Đây là cách ở Thái-land. Còn ở Việt Nam; BT620, Phanvu, BCC, thì người ta đổ từng đốt một, mỗi cách có một ưu nhược điểm riêng.
Về mặt khả năng chịu lực và cả về quan điểm kinh tế, đóng cọc BTDUL đều tốt hơn cọc thường. Nhưng vì các đơn vị thiết kế của ta, không mấy ai từ đầu đã thiết kế cọc BTDUL, nên người thi công cũng phải dùng cọc thường. Cọc thường do các cơ sở sản xuất có giá thành thấp hơn các nhà máy lớn như BT620, PhanVu, BCC, vv. và họ thường có dàn đóng đi kèm, giá cả thuận lợi, nhanh gọn.
Mặt khác, cùng sản xuất tại nhà máy thì cọc BTDUL rẻ hơn cọc BTCT, tuy nhiên nếu cọc BTCT được sản xuất ngay tại công trường thì lại rẻ hơn cọc BTDUL sản xuất tại xưởng, nhà thầu thường chọn phương án tự sản xuất để tiết kiệm tiền thuê nhân công. Ngoài ra khi đúc tại công trường, hay đúc cọc BTCT thường, ta có thể tùy ý quyết định chiều dài cọc cho phù hợp điều kiện địa chất, điều này đối với cọc BTDUL thì khó khăn hơn, tuy nhiên không phải là không làm được nếu có thông tin đặt hàng sớm.
Về mặt kỹ thuật, dù cọc BTCT hay BTDUL thì chiều dài cọc thuận lợi cho việc thi công và vận chuyển cũng chỉ là 12m. Nếu đúc cọc đảm bảo thì cọc BTDUL có khả năng chịu uốn tốt hơn, thuận lợi cho việc vận chuyển và đóng cọc, còn về mặt chịu tải trọng thẳng đứng của công trình thì hai loại cọc này đều như nhau, Pvật liệu bao giờ cũng lớn hơn Pđất nền.
Thôi chào các bác, các anh em.
|
thietkelogo |
|
|
Cọc BTCT ƯST được nối với nhau bằng máy hàn CO2 ( hàn bằng dây hàn ) với cọc 500 mm nếu hai người cùng hàn thì mất 5 phút thì xong. Chi phí hàn kiểu này rẻ hơn hàn thông thường. Thông thường chỉ dùng cọc dài 12 - 14 m.
|
thuymo |
|
|
Tôi có một tài liêu khá hay, các bạn co thể tham khảo.
|
rtgreter vret ẻ |
|
|
Cảm ơn ZIZOU, tài liệu khá hay và chi tiết, bạn download ở địa chỉ nào vậy !
|
chongthambamien.vn |
|
|
Tài liệu này tôi cũng tình cờ tìm được trên mạng.Nếu Anh Huy quang tâm thì vào trang www.pci.org (prestressed concrete institute)
Có rất nhiều tài liệu về bêtong dự ứng lực cho mọi loại công trình từ dân dụng, cầu đường, giao thông...
|
Charlesquew |
|
|
Tui mong rằng các bác cứ mạnh dạn đưa PC pile vào thiết kế của các bác;
hoặc các bạn cứ nói rõ yêu cầu chịu lực của cọc trong bản vẽ và cho phép bên thi công chọn một trong 2 giải pháp cọc BTCT hay cọc BTDUL miễn là thoả mãn các chỉ tiêu thiết kế mà các bác yêu cầu, để tạo điều kiện cho cọc BTDUL bay bổng.
Nếu các bác cứ loay hoay tìm hiểu về cây cọc đó thì cũng chẳng giúp thêm nhiều lắm, vì đối với công trình; khả năng chịu lực theo điều kiện đất nền mới là quan trọng, cọc BTCT hay BTDUL đóng xuống đất rồi thì cũng như nhau;
Trách nhiệm sản xuất ra cọc BTDUL thuộc về nhà máy sản xuất ra nó; tức họ phải đảm bảo các thông số kỹ thuật mà các bác đưa ra. Hai loại cọc BTCT và BTDUL chỉ khách nhau ở công đoạn thi công là chính.
Việc sản xuất nó thì cũng giới hạn bởi công nghệ, máy móc, đã có thiết kế tiêu chuẩn; các bác mà chế ra khác đi thì nhà sản xuất chạy theo cũng mệt, họ phải thay đổi lại mặt bích máy tạo ***g, gia công lại mặt bích cọc, cân đối lại lực kéo căng... nói chung là nhiều thứ lắm.
|
hiepsitayto |
|
|
Hi, chào các bác, nay tui post lên đây một tài liệu mà có lẽ một số bạn cũng cần đấy:
là tài liệu thuyết minh quy cách kỹ thuật và tính toán sức chịu tải (vật liệu) của
1) cọc bê tông ứng lực trước - nhà máy BCC
2) trụ điện bê tông ứng lực trước - nhà máy BCC
Sản xuất tại nhà máy này có từ 2002 đến nay.
|
profil7 |
|
|
Lĩnh vực cọc BTCT DƯL tôi cũng rất quan tâm. Tuy nhiên theo quan điểm của cá nhân tôi thì loại cọc này có nhiều ưu điểm mà các loại cọc BTCT thường không thể nào "với" tới nổi đấy.
1. Cọc DƯL có khả năng chịu moment cao hơn hẳn cọc BTCT thường (nếu không thì người ta chế tạo loại cọc này để làm gì). Theo tôi ngoài các công năng như bạn XUANTHUY đã ghi, nó thích hợp với công trình cảng (chịu lực ngang lớn như lực va tàu chẳng hạn), kè (để chịu áp lực đất)... Hiện nay ViệtNam chúng ta đã chế tạo và đã sử dụng đại trà các loại cọc tiết diện W (giống như cừ larsen vậy).
2. Nếu đã tính móng cọc trong công trình cầu và công trình bến, bạn sẽ thấy đối với các loại đất nền tốt, giá trị moment nội lực lớn nhất nằm ở phần dưới mặt phẳng đáy bệ (thường là các cty tư vấn không xét được hoặc bỏ qua không tính). Trong một số trường hợp, nó tỏ ra là phương án kinh tế hiệu quả và... chất lượng.
3. Hiện nay ở ViệtNam chúng ta, cọc DƯL thường dùng cáp 12,7mm hoặc 15,2mm để thiết kế chứ ít dùng cốt thép thanh vì nhìn chung cốt thép thanh mắc hơn nhiều khi dùng cáp (vận chuyển cáp cuộn đễ hơn thanh, dễ bảo quản, cường độ cao hơn thanh, dễ kéo hơn thanh đúng không?)
4. Khi tôi đọc bài viết của bạn XUANTHUY, tôi biết bạn rất am hiểu về DƯL. Tuy nhiên, theo tôi cọc hay dầm DƯL nói chung chẳng qua nó chỉ thuộc dạng cấu kiện DƯL. Đừng quá bận tâm về tiêu chuẩn thi công - nghiệm thu và chắc chắn thị trường sẽ quyết định sự sống còn của sản phẩm.
|
DanielEi |
|
|
Em cũng thấy như vậy ! Thị trường sẽ quyết định sự sống còn của nó !Nhưng vấn đề là nhanh hay chậm vị chậm sẽ đem đến sự thiệt hại vô hình cho đất nước nhiều lắm ! Các bác kĩ sư kết cấu là người quyết định điều này , các bác hãy mạnh dạng lên.Em biết đã có anh đã làm cọc bêtong DUL rồi cũng khả quan lắm , hình như hiện nay 620 khá mạnh về vấn đề này
|
fordthudo1 |
|
|
Ah Tôi định đưa cọc DUl vào làm pa2 trong DATN ! Anh Thủy cho tôi hỏi tính toán nó có gì khác cọc BTCT bình thường của tôi không ah ( vì là DATN nên cũng phải tính toán cho bài bản) !
|
dolkihote |
|
|
Tính toán của chúng ta chỉ có giá trị tham khảo thôi. Khó có thể áp dụng vào thực tế đối với cọc BTCT. Vì Các cọc ƯST các công ty đã có TK cho từng loại cọc từ lâu rồi. Các nhà máy chỉ việc sản xuất hàng loạt thôi. mà các TK đó đã được công nhận rồi.
Có lẽ tôi muốn làm phương án cọc ống ƯST phải không? nếu thế cần liên hệ với 620 hoặc Phan Vũ thể tham khảo các thông số kỹ thuật của cọc (Phan Vũ sản xuất cọc ống nhiều hơn cả 620).
|
quyetthang122 |
|
|
Em cũng có trong tay hai bản vẽ do anh tuấn anh gửi và hai cái bảng excel của anh Thủy đấy ! Đúng là tôi định làm cọc rỗng UST nhưng nghe nói Phan Vũ không có catalo cty này chỉ nói là tùy theo công trình! Tôi chỉ hỏi là tính toán vá cấu tạo có giống cọc BTCT của tôi thường tính không ( có anh nói SCT nó cao hơn còn lại tính như cọc BTCT bình thường )
|
test0032 |
|
|
Cọc ƯST rỗng sử dụng BT mác 700-800 nên có thể khả năng chịu tải lớn hơn cọc BTCT thường.
|
RobertDum |
|
|
Chứ Đức,
Tính toán và cấu tạo ở phương diện chịu lực cho công trình bên trên thì bình thường như cọc BTCT thường (ma sát bên, chống mũi).
Còn tính toán để sản xuất cọc thì khác, tính theo dạng cấu kiện chịu uốn. Tôi xem thêm bảng tính excel đã có.
Mác bê tông cao do quay ly tâm và dưỡng hộ nhiệt (2h), có thể có phụ gia silicafume nếu muốn đạt cứng siêu tốc (1h), nhưng thực tế xây dựng không cần đến mức độ phải nhanh như thế, chỉ làm tăng giá thành mà thôi. Lượng dùng mà mác xi măng vẫn chỉ là PC40, cỡ 400-450 kg/m3.
Chú nên tập trung cho công việc đồ án đúng mục tiêu, không nên khai thác rộng làm loãng đề tài.
Việc thiết lập bản vẽ chế tạo cọc thì không khó, theo bảng tính và bản vẽ mà tôi đã có, tôi có thể vẽ thêm nhiều cọc khác mà không sợ sai bất cứ điều gì, vì nó đã được chuẩn hóa như vậy rồi để sản xuất công nghiệp.
Quả đúng là vì nó quá đơn giản, nên phải tùy công trình để chọ chiều dài và đường kính.
|
tontai |
|
|
Em làm xong phương án cọc nhồi rồi , đang tính làm phương án 2 bằng cọc dul cho nó mới. Nhưng cái bản vẽ còn 1 số chổ tôi chưa hiểu cấu tạo của nó chắc xem xét kĩ lại ( để ra bảo vệ biết đường mà trả lời tiếc thật chưa có cơ hội xem cái cọc thật ), nếu tính như cọc BTCT thì đơn giản không có vấn đề gì.
PS: Tôi có nhắn tin cho anh không bíêt anh có đọc chưa , cuối tuần anh có rãnh không , tôi rủ thêm anh zmt 3 anh tôi đi uống càe nói chuyện chơi. Nếu rãnh anh nhắn cho tôi nhé cho tôi SDT với SDT của em
|
kukuca |
|
|
Nếu cần chú có thể đến BCC- KCN1 Biên Hòa, tới ngã ba Vũng tàu rẽ trái vào đường song hành KCN 1, quá TT3 đi khoảng 1km, gặp Mr.Long 061836196 (phòng Xe máy Thiết bị) xin cho xem, nói là Mr.Thuy nhờ giúp đỡ. Thế là xong. Người ta đang sản xuất loại cọc này ở đó.
Tuy nhiên, tôi xem phần trước để biết ưu nhược điểm của nó. Trong phần phỏng vấn online của thầy nền móng trên ketcau cũng có nhắc đến khả năng dùng cọc tròn DUL này.
Cái chủ yếu của luận án là tôi biết phân tích ưu nhược điểm của từng phương án. Theo anh cọc nhồi vẫn là phương án tốt hơn cho nhà cao tầng trong thành phố (vấn đề đóng cọc tải lớn, vấn đề SCT đơn vị của từng cọc, vấn đề ổn định kháng lún do mở đáy, xử lý đáy cọc nhồi). Tuy nhiên, một số Nhà cao tầng ở TP. cũng có dùng cọc, như SG riverside..
|
Alegowasea |
|
|
Xét về mặt kinh tế đối với nhà cao tầng từ 12-17 tầng nếu sử dụng cọc ƯST có nhiều ưu điểm hơn cọc nhồi vì giá rẻ.
Tuy nhiên việc này còn phụ thuộc vào địa chất khu vực, nếu có thể thi công cọc bằng phương pháp ép hoặc đóng thì cọc ƯST rẻ hơn cọc nhồi nhiều với số tâng như trên. Hiện nay có rất nhiều nhà cao tầng khu vực Thủ thiêm (từ 15-17 tầng) sử dụng cọc ƯST.
|
arthomeviet |
|
|
Chao Mr. Thuy va cac ban.
Tôi thấy các bác nói về cọc DUL rất hay Tôi đang ở tỉnh lẻ, cũng rất quan tâm về việc sản xuất cọc DUL. Cho tôi hỏi cái cọc DUL có thể dùng cho các công trình dân dụng nhỏ như nhà dân dụng 2, 3, 4 tầng được khổng, tính kienh tế của nọ
Tôi đang tỉm hiểu về cọc DUL vuong, tiet dien khoang 20x20cm; 25x25cm; 30x30cm để có thể dùng rộng rãi trên thị trường. Mong các bác chỉ dẫn thêm nhiệu
Tôi đang có nhu cầu kể cả về Tư vấn để sản xuất cái món cọc DUL nạy Các bác giúp tôi các tài liệu, bản vẽ,...
Địa chỉ mail của tôi là : ltn_mailopt@yahoo.com
Chúc các bạn sức khỏe dồi dào để làm diễn này ngày càng hay
|
MichelPurn |
|
|
Chào bạn, cọc DUL vuông có thể tiết kiện chi phí khoảng 2/3 so với cọc thường. Chi phí đầu tư sản xuất cũng rẻ. Thiết bị mua ngoài chỉ là kích thủy lực (Korea/USA/JPN/EU). Còn lại là cổng trục/khuôn gia công trong nước. Bãi đúc bằng BTCT, bảo dưỡng nước, nếu cao hơn có thể dưỡng hộ nhiệt. Bê tông cọc mác phải cao một chút (dùng một số loại phụ gia); thao tác kéo/nhả neo thép theo đúng quy trình.
Nói tóm lại đây là một bài toán kinh tế có lãi ổn định. Nếu bác thực sự muốn làm thì mọi người/tui có thể giúp, từ khâu BCNCKT-sản phẩm. Cọc này có lợi điểm là chi phí cốt thép thấp, chiều là lớn (12m) nên tiết kiệm mối nối.
|
Renatosymn |
|
|
Xin hỏi các chuyên gia và người có kinh nghiệm trong lĩnh cực này một chút nhé:
- Khi mà ép cọc đạt độ chối thì cắt cọc phải làm sao nhỉ, không biết có cắt được không, chứ cứ phải ép cả cây thì so với phương pháp cọc BTCT chắc gì đã kinh tế hơn nhỉ.
- Với lại neo vào đài thì phải không biết làm sao mà nhỉ.
- Về chịu lực thì đồng chí này ngon rồi, tôi được biết cọc D 600 có sức chịu tải vật liệu khoảng 300 T cơ đấy, chịu uốn và khống chế vết nứt thì khỏi phải bàn nhỉ, bê tông DƯL cơ mà.
- Còn về mối nối thì không hiểu thế nào, tôi chưa thi công trực tiếp bộ môn này, chỉ biết là cũng hành tại hiện trường, nếu không dùng bản táp gì thì đường hàn chỉ có bằng đúng chu vi cọc thôi nhỉ, vậy làm sao mà đảm bảo được, đồng chí nào đã thi công bộ môn này nói kĩ cái.
- Còn chế tạo thì đối với cọc tròn chắc dùng phương pháp li tâm nhỉ, phương pháp này thi công thế nào nhỉ. Không biết liệu có phải là quay tít mù đến khi bê tông đạt cường độ không, chứ nếu chưa đặt cường độ nhỡ nó nứt thì sao. Ngoài ra cái cọc này bảo dưỡng ra làm sao nhỉ.
- Khi thi công ép cọc xong, phải nhồi vật liệu vào lỗ rỗng ở giữa thân cọc, vậy dùng bê tông hay dùng vữa xi măng nhỉ, có cần phụ gia trương nở không, hay chỉ lấp đầy gọi là có cho xong.
Mong mọi người nói rõ cái
|
KennethOt |
|
|
Cọc BTCT DƯL hơn hẳn cọc BT thường ở điểm chống nứt, chịu monent uốn. Về giá thành tuy có đắt hơn cọc BTCT thường nhưng rẻ hơn nhiều so với cọc khoan nhồi. Về chịu lực thì ổn hơn so với cọc khoan vì cọc chế sẵn, ma sát thành lớn, trọng lượng nhẹ. Nói chung cọc PC có thể thay thế hoàn toàn cọc khoan, trừ trường hợp đường kính cọc quá lớn và quá sâu. Hiện nay ở VN có nhiều công ty sản xuất cọc PC. Ở SG có Phan Vũ, 620, ở HN có Xuân Mai. Tôi đã đi thăm vài nơi và ấn tượng nhất là cty Phan Vũ, hiện nay họ đã sản xuất đến PC pile D900, dài 21m. Nhìn chung là công nghệ chế tạo không có già quá khó khăn, người ta không làm chủ yếu vì hiện nay ít có đơn đặt hàng. Bây giờ tôi biết có nhiều công ty khác, nhỏ hơn đã bắt đầu sản xuất PC pile, trong đó có 1 công ty ở Hậu Giang (Cty cỏ phần BT Hậu Giang).
Về khả năng làm việc, cọc PC thích hợp với điều kiện đất yếu, sức chịu tải chủ yếu nhờ ma sát thành bên. Khả năng chịu M rất tốt do ƯST, BT cườngđộ cao, thép cường độ cao. Các thiết kế hiện nay cũng tường đối đa dạng. Trước đây cọc của BT620 dùng cable xoắn 12.7, BT M500. Hiện nay chủ yếu là thép tròn trơn D5 - 11, BT M700 800, có lẽ kinh tế hơn. Tuy cũng có cọc tiết diện vuông nhưng chủ yếu người ta làm cọc tròn rỗng để quy ly tâm, BT khô, dưỡng hộ tốt, nhanh ra sản phẩm. Khi quay ly tâm, BT lớp ngoài cùng rất cứng, đối với ống cống thì không tốt (dễ thấm lớp trong) nhưng với cọc thì rất hay.
Hiện nay ở VN người ta đặt hàng cọc PC chủ yếu cho các công trình cảng. Trước đây có cảng Cát Lái dùng rất nhiều, vừa rồi cảng Phú Mỹ dùng cọc D600, hình như còn đang đóng. Thiết bị đóng cọc này cũng rất khổng lồ, dùng búa Diezel. Như ở Phú Mỹ người ta dùng búa 12 tấn, phải nguyên một xà lan mới chở hết búa và thiết bị của nó. Nối cọc thì dùng đường hàn thôi, hàn mặt bích và ống thêm thép.
Rõ ràng cọc PC hiệu quả như thế mà trong ngành cầu người ta không mặn mà mấy. Trước đây chỉ có vài cầu ngoài Bắc làm thôi, vd cầu An Dương -HP, cầu Hồ - BNinh. Hồi năm ngoái tôi tham gia thiết kế 1 cầu qua sông Đồng Nai, có 1 pán dùng cọc ống mà không được ai ủng hộ (kể ra địa chất ở đấy cũng khó đóng). Địa chất vùng ĐB SCL là rất hợp với cọc PC, rẻ hơn nhiều so với cọc khoan.
|
profilmuoibay17 |
|
|
Chao pác dinhnghia và cauBTCT:
1) Cắt cọc dùng cưa - khoản này hơi tốn lưỡi cưa, chừng 10 nhát cắt/lưỡi. Muốn cắt chỗ nào thì cắt.
2) neo vào đài bằng liên kết khớp = nhồi một ít bê tông vào trong rồi cấy thép râu ra ngoài. Nếu liên kết ngàm thì phải ngàm ngoài. Khi mới làm cũng nghĩ đến chuyện dùng bê tông giản nở, nhưng sau thì thôi vì vật liệu cho bê tông này không có. vữa co ngót OK.
3) Mối nối hàn góc đầy giữa 2 bích nối. tổng chiều dài đường hàn như thế là đủ. nếu bị vênh phải dùng bản táp hoặc đệm thép nền cho đầy.
4) chế tạo bằng li tâm - hỗn hợp bê tông trước ly tâm độ sụt 3-4cm, quá trình ly tâm theo 2 giai đoạn làm chặt khít vữa, dưỡng hộ nhiệt sau 3-5h (tùy loại cọc) rồi tháo khuôn. Hic, rồi chở thẳng ra công trường để trống bãi chứa.
5) Không cần phải nhồi bê tông vào lòng cọc; bích đầu cọc đã kín, cuối cọc đã có đài.
|
MichaelKl |
|
|